Giáo Hội luôn nhấn mạnh tầm quan trọng và sự cao quý của
thánh lễ. Quy chế tổng quát của Sách Lễ Rôma mở đầu bằng câu sau đây
: "Việc cử hành thánh lễ, với tích cách là hành động của Chúa Kitô
và của dân Thiên Chúa, được tổ chức theo phẩm trật, là trung tâm
toàn bộ đời sống Kitô giáo, đối với Hội Thánh toàn cầu, cũng như Hội
Thánh địa phương, và đối với từng tín hữu" (số 1). Giáo Hội được
dưỡng nuôi và sống bởi Lời Chúa và Thánh Thể. Vì thế Giáo Hội mời
gọi tất cả chúng ta cố gắng tìm hiểu, khám phá ra hoặc khám phá lại
thánh lễ, là hành vi trung tâm của đời sống Kitô giáo chúng ta.
Chúng ta có thể tìm hiểu ý nghĩa của thánh lễ dưới ba khía cạnh :
Kinh Thánh, thần học và lịch sử. Ngoài ra, có thể thêm khía cạnh thứ
tư mà chúng ta sắp sử dụng : đó là nghi thức, nghĩa là nghiên cứu
các nghi thức trong thánh lễ để tìm hiểu và khám phá ra ý nghĩa đích
thật của thánh lễ.
Chắc hẳn, đã có lần bạn đặt câu hỏi về ý nghĩa của một vài
nghi thức phụng vụ khi bạn tham dự thánh lễ : dấu thánh giá, cộng
đoàn đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng (Phúc Âm), nghi thức bẻ
bánh, v.v...
Thật ra, mỗi một nghi thức đều ẩn chứa biết bao ý nghĩa
phong phú. Mỗi hành vi phụng vụ đều có ý nghĩa thần học cả.
Tài liệu nầy được đưa lên mạng lưới điện toán toàn cầu nhằm
mục đích giải thích những nghi thức quan trọng của thánh lễ, được
trình bày theo thứ tự thời gian trong thánh lễ, và cho một vài giải
thích liên quan đến thánh lễ, cũng như trả lời một số câu hỏi mà bạn
thường đăït ra.
Những câu trích dẫn trong thánh lễ, của Sách Lễ Rôma, lấy
theo bản dịch 1992 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Trong Giáo Hội Công Giáo, với phong trào canh tân phụng vụ
khởi phát ít lâu trước Công Đồng Vaticanô II (1962-1965), được thảo
luận rộng rãi trong Công Đồng, và dần dần được áp dụng với những
thay đổi mà ta đã thấy khá quen thuộc như hiện nay, người ta càng
ngày càng ý thức sâu sắc hơn về ý nghĩa đích thật của thánh lễ như
là hành vi cảm tạ, ngợi khen và hân hoan. Thật vậy, thánh lễ là hiến
tế tạ ơn. Cách gọi này đã xuất hiện từ lâu và gợi lên lịch sử của
thánh lễ. Thánh lễ bắt nguồn từ một nghi thức của Do-thái, nghi thức
vọng lễ Vượt Qua, trong đó mỗi gia đình người Do-thái dâng lời cảm
tạ Thiên Chúa đã thương giải phóng dân tộc của họ thoát khỏi ách nô
lệ của Ai-cập, cảm tạ Người vì những cuộc giải cứu khác về mặt
thiêng liêng mà cuộc giải phóng đầu tiên này là dấu chỉ. Nghi thức
Vượt Qua cũng loan báo Đấng Cứu Tinh sẽ đến, là Đấng Thiên sai sẽ
chiến thắng sự chết và tội lỗi, và sẽ đưa Lịch Sử thánh đến sự hoàn
tất.
Diễn tiến của nghi thức này cũng chính là diễn tiến mà chúng
ta gặp trong thánh lễ hôm nay : nhắc lại những kỳ công mà Thiên Chúa
đã thực hiện cho dân Người, tiếng hát và lời tạ ơn, chúc tụng và
chia sẻ bánh, rượu.
Bạn đừng ngạc nhiên về những điểm giống nhau của thánh lễ
với nghi thức Vượt Qua của người Do-thái : bởi trong chính một buổi
cử hành lễ Vượt Qua, Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể. Thay vì chỉ
chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho bánh, rượu và mọi điều
hạnh phúc, Chúa Giêsu "cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và nói :
"Này là Mình Thầy, chịu phó nộp vì các con : các con hãy làm việc
này để tưởng nhớ đến Thầy". Cũng vậy sau bữa ăn, Người cầm lấy chén
rượu và nói : "Chén này là Giao Ước mới trong máu Thầy ; mỗi lần các
con uống, các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy" (1 Cor 11,
23-25).
Như vậy, chúng ta thấy rõ bữa Tiệc Ly bắt nguồn từø một nghi
thức tạ ơn của người Do-thái được cử hành để tưởng nhớ cuộc giải
phóng của dân riêng Thiên Chúa. Nhưng dù vẫn giữ lại ý nghĩa của
nghi thức này, Chúa Kitô lại làm phong phú thêm bằng một ý nghĩa mới
mang tầm vóc hoàn vũ. Chính Người, là Đấng Cứu Tinh mà mọi người
mong đợi, đang thực hiện cuộc giải phóng dân mới của Chúa, tức là
Giáo Hội, được cứu độ bởi Thánh Giá và sự phục sinh của Người. Từ
bữa Tiệc Ly đó, các Kitô hữu dâng lên Chúa Cha, mỗi ngày và mọi nơi,
của lễ hy sinh và tạ ơn của chính Chúa Kitô.
2. Và diễn tiến lịch sử hình thành thánh lễ ra sao?
Các Tông Đồ và giáo dân tiên khởi đã cử hành nghi thức "bẻ
bánh" (danh từ các tín hữu thời ấy dùng để nói đến thánh lễ)
: "Hằng ngày, họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền
Thờ, bẻ bánh ở tư gia và ăn uống đơn sơ, vui vẻ" (Công Vụ
Tông Đồ 2, 46). Họ dùng bữa, với nghi thức "bẻ bánh", nay ở
nhà người này, mai tại nhà người kia. Cộng đoàn thời ấy được
xem như là một "đền thờ sống động".
Rất sớm, người ta đã thêm vào trong bữa ăn này những bài
thánh ca, kinh nguyện và những bài đọc Kinh Thánh.
Chỉ từ thế kỷ thứ IV, người ta mới nói đến "Lễ Misa" (xem
chữ này ở phần cuối : Giải thích một số từ phụng vụ). Vào
thời ấy, sau khi hoàng đế Constantinô trở lại đạo công giáo,
người ta thấy xuất hiện những cộng đoàn đông đảo Kitô hữu.
Các nghi lễ phụng vụ chịu ảnh hưởng các nghi thức và lễ hội
của người Rôma. Y phục được dùng trong các buổi lễ thời đó
là nguồn gốc của tu phục, áo lễ giáo sĩ mà bạn thấy hiện
nay. Dần dần, người ta không còn ý thức về ý nghĩa của cộng
đoàn và của bữa ăn mà trong đó Chúa Kitô chính là lương thực
nuôi sống nhân loại. Người ta rước lễ ít hơn. Vài thế kỷ sau
đó thì mai một thêm ý thức về bữa ăn và về tâm tình tham dự
vào hy lễ. Thánh lễ trở thành một buổi trình diễn có tính
cách thánh thiêng.
Vào thế kỷ XII, việc tôn sùng đối với sự hiện diện thực sự
của Chúa Kitô nơi bánh thánh đưa đến việc trưng bày bánh
thánh trên bàn thờ (Chầu Thánh Thể). Việc linh mục giơ cao
bánh đã được truyền phép xuất phát từ việc các tín hữu ước
mong được "nhìn" bánh thánh (khoảng từ năm 1200). Việc nâng
cao chén thánh được thêm vào sau đó.
Vào thế kỷ XIII và XIV, người ta thấy xuất hiện những cuộc
kiệu rước Thánh Thể đầu tiên. Tín hữu "ngắm nhìn" Thánh Thể
nhưng ít khi rước lễ. Phải chờ đến triều đại của Đức Giáo
Hoàng Piô X, họ mới ý thức lại việc rước lễ "thường xuyên"
(1905) và việc cho trẻ em rước lễ (1910).
Trong thánh lễ, các tín hữu rất thụ động. Năm 1947, Đức Giáo
Hoàng Piô XII công bố thông điệp "Mediator Dei" (Đấng trung
gian của Thiên Chúa) nhằm canh tân phụng vụ dưới mọi phương
diện, trong đó có việc mời gọi cộng đoàn đối đáp với linh
mục chủ tế.
Với Công Đồng Vaticanô II, người ta tìm lại được ý nghĩa sâu
xa của thánh lễ, được tất cảù mọi người cùng cử hành dưới sự
chủ tọa của linh mục, là bữa tiệc của Thiên Chúa và là nghi
thức bẻ bánh. Cách đây không lâu, lòng tôn sùng Thánh Thể
vẫn còn được xem như là việc đạo đức cá nhân, nay thì thánh
lễ lại trở nên hành vi tạ ơn của toàn dân Chúa.
Thánh lễ gồm hai phần :
° Phụng vụ Lời Chúa.
° Phụng vụ Thánh Thể.
Hai phần này liên kết chặt chẽ với nhau làm thành một hành
vi phụng tự duy nhất. Thật vậy, thánh lễ là bàn tiệc gồm Lời
Chúa và Thánh Thể, nơi đây các tín hữu được giáo huấn và bổ
dưỡng.
Các nghi thức trước phần phụng vụ Lời Chúa (gồm bài ca nhập
lễ, lời chào, nghi thức sám hối, kinh Thương xót, kinh Vinh
Danh và lời nguyện nhập lễ) đều có tính cách mở đầu, dẫn
nhập và chuẩn bị.
Các nghi thức vừa kể trên nhằm giúp các tín hữu hiệp thông
với nhau, chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa và cử hành
thánh lễ cho xứng đáng.
A. Phụng vụ Lời Chúa
Phần chính yếu của phụng vụ Lời Chúa là các bài đọc trích từ
Kinh Thánh, với những bài thánh ca kèm theo. Còn bài giảng,
lời tuyên xưng đức tin (kinh Tin Kính) và lời nguyện giáo
dân, cũng gọi là lời nguyện tín hữu, có mục đích khai triển
và kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa.
B. Phụng vụ Thánh Thể
- Dâng lễ : chuẩn bị lễ vật mà trong giây lát nữa sẽ trở
thành Mình và Máu Chúa Kitô.
- Kinh Tạ Ơn : là trung tâm và là đỉnh điểm của thánh lễ
(chúng ta sẽ khai triển ở phần sau).
- Những nghi thức hiệp lễ : kinh Lạy Cha, chúc bình an, bẻ
bánh, kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, rước lễ và lời nguyện hiệp
lễ.
Sau phần Phụng vụ Thánh Thể là nghi thức kết lễ : chào và
ban phép lành, và giải tán cộng đoàn giáo dân.
° Giám mục hoặc linh mục chủ tọa thánh lễ là dấu chỉ sự hiện
diện của Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người. Điều đó quả
quyết rằng, lúc những người đã chịu phép Rửa tụ họp nhau
lại, đó là chính Chúa Kitô qui tụ và phán dạy họ, chính
Người ban Mình của Người và xây dựng Giáo Hội.
Nếu có nhiều linh mục đồng tế, thì chỉ có một vị chủ tế từ
đầu đến cuối thánh lễ. Vị chủ tế đó biểu tượng cho sự hiện
diện của chính Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người.
° Khi đọc những lời nguyện, linh mục chủ tế luôn nhân danh
cộng đoàn (sẽ đề cập chi tiết hơn ở những câu hỏi sau).
5. Tại sao thánh lễ luôn được cử hành giống nhau, đọc hoài những lời bất biến?
Bởi vì Chúa Giêsu đã phán dạy : "Các con hãy làm việc này mà
nhớ đến Thầy" (Lc 22, 19 ; 1 Cor 11, 24-25). Do đó, chúng ta
thực hiện những gì mà Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta phải
làm để tưởng nhớ đến Người. Từ gần 2000 năm qua, chỉ có một
vài thay đổi nhỏ trong thể thức diễn tả mà thôi. Và cũng gần
2000 năm qua, người Kitô hữu không ngừng tuyên đọc : "Trước
ngày chịu nạn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh... cầm lấy chén
rượu..." và họ cùng làm một cách thức như thế.
Trong thánh lễ, chúng ta không cử hành bữa Tiệc Ly, nhưng là
cử hành sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Để thực hiện
điều đó, chúng ta dựa trên cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu
ở bữa Tiệc Ly. Có tất cả bốn cử chỉ : "Chúa Giêsu cầm lấy
bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ". Toàn phần phụng
vụ Thánh Thể tóm gọn trong đó :
° Chúa Giêsu cầm lấy bánh (và rượu) : đây là phần Dâng lễ.
° tạ ơn : kinh Tạ Ơn.
° bẻ ra : nghi thức bẻ bánh.
° và trao cho cho các môn đệ : rước lễ.
Sự "tưởng nhớ" của thánh lễ không chỉ là một kỷ niệm, nhưng
là tác động bí tích, qua đó, điều Chúa Kitô đã thực hiện một
lần duy nhất trong quá khứ được ban cho chúng ta thực sự
trong hiện tại của đức tin Kitô giáo.
Về vấn đề tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta có thể
đặt câu hỏi : tại sao không cử hành thánh lễ ngày thứ năm,
vì Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể ngày thứ năm Tuần
Thánh ?
Chúa nhật là ngày ưu tiên để cử hành thánh lễ, vì đó là ngày
Chúa Phục Sinh. Và thánh lễ chỉ có thể cử hành khi Chúa Kitô
đã sống lại. Thánh Phaolô có nói : "Nếu Chúa Kitô không sống
lại, thì lời giảng dạy của chúng tôi là hư vô và đức tin của
anh em là mơ hồ" (1 Cor 15, 14). Nói cách khác, nếu Chúa
Kitô không sống lại, thì không có đức tin, không có Giáo Hội
và cũng không có các bí tích.
Như thế, cử hành thánh lễ ngày Chúa nhật có một ý nghĩa thần
học rất quan trọng. Thánh lễ không phải là sự lặp lại của
bữa Tiệc Ly. Cử hành thánh lễ ngày Chúa nhật xác định rằng
đó là sự tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô.
Chính trong buổi tối Phục sinh mà hai môn đệ, trong nhà trọ
tại làng Emmau, đã nhận ra Chúa Sống Lại khi Người bẻ bánh
(Lc 24, 13-35).
Sau cùng, Chúa nhật là ngày toàn Dân Chúa dâng lời tạ ơn,
tán tụng lên Thiên Chúa, cảm tạ Người đã chiến thắng sự
chết.
6. Tại sao linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép ?
° Áo dài trắng (cũng gọi là áo Alba) là loại áo chùng dài
màu trắng với hai ống tay rộng, được mặc bên trong.
° Dây các phép (cũng gọi là dây Stola) là một dải vải dài,
thường cùng màu với áo lễ. Giám mục và linh mục mang dây các
phép chung quanh cổ và rủ xuống phía trước, còn thày phó tế
thì đeo chéo vai. Cách đeo dây các phép cho phép ta dễ nhận
ra phẩm trật của các chức thánh (giám mục, linh mục, phó
tế).
° Áo lễ, rất rộng phủ ngoài áo dài trắng. Màu áo thì tùy
theo mùa phụng vụ hoặc theo ngày lễ : đỏ, xanh, tím, trắng
(hoặc vàng).
Phó tế chỉ mặc áo trắng và dây các phép (chéo vai).
Trong Hội Thánh là Nhiệm Thể Chúa Kitô, các chi thể không
thi hành cùng một chức vụ như nhau. Khi thi hành việc phụng
tự, sự khác biệt về chức vụ được biểu lộ ra bề ngoài nhờ sự
khác biệt về phẩm phục. Do đó phẩm phục là dấu chỉ của mọi
thừa tác viên. Hơn nữa, phẩm phục thánh làm tăng vẻ trang
trọng của chính nghi lễ phụng vụ.
Nếu linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các
phép trong thánh lễ, chính chỉ vì muốn cho mọi người biết
rằng linh mục nói và hành động không phải với danh nghĩa cá
nhân của mình, nhưng là nhân danh Đức Giêsu Kitô.
7. Đâu là ý nghĩa của màu sắc các phẩm phục phụng vụ ?
Mỗi màu sắc mang một ý nghĩa :
Màu tím, màu của sự ăn năn, thống hối và của sự mong đợi,
được dùng trong Mùa Chay và Mùa Vọng. Người ta cũng dùng màu
tím trong thánh lễ và các nghi thức phụng vụ cầu cho những
kẻ đã qua đời (trước Công Đồng Vaticanô II, dùng màu đen).
Màu đỏ là màu máu và lửa, được dùng trong ngày Chúa nhật
Thương khó (lễ Lá), thứ Sáu Tuần Thánh, Lễ Chúa Thánh Thần
hiện xuống, trong các cử hành cuộc thương khó của Chúa,
trong lễ kính các thánh Tông đồ, các thánh sử Tin Mừng và
trong các lễ kính các thánh tử đạo.
Màu trắng (có thể được thay thế bằng màu vàng) gợi lên sự
trong sạch, tinh tuyền, nhất là vinh quang của Thiên Chúa,
được dành cho các nghi thức phụng vụ và các thánh lễ Mùa
Phục Sinh và Mùa Giáng Sinh ; cũng dùng trong các lễ kính,
lễ nhớ về Chúa không phải là lễ kính nhớ cuộc thương khó của
Người ; các lễ kính Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh không
phải là thánh tử đạo. Màu trắng còn diễn đạt sự phục sinh
của Chúa Kitô cũng như sự phục sinh của chúng ta sau này.
Nơi bàn tiệc thiên quốc những người được tuyển chọn đều mặc
y phục trắng toát (xem sách Khải Huyền 7, 9).
Màu xanh lá cây được dùng trong các thánh lễ trong Mùa
Thường Niên hoặc Quanh Năm. Màu xanh lá cây là màu của niềm
hy vọng và của sự sống. Khi thấy vị linh mục tiến lên bàn
thờ trong phẩm phục màu xanh, điều đó cho chúng ta nghĩ rằng
chúng ta là những người có niềm hy vọng lớn lao, là đoàn lữ
hành đang được Chúa Kitô dẫn đến những cánh đồng cỏ xanh
tươi của miền đất hứa...
Màu hồng được sử dụng hai lần trong năm (Chúa nhật III Mùa
Vọng và Chúa nhật IV Mùa Chay) để mời gọi tín hữu hưởng niềm
vui thầm kín và an lành trong niềm trông đợi Đấng Cứu Tinh
hoặc trong sự chuẩn bị đón mừng Chúa Kitô phục sinh.
Tại Việt Nam, màu hồng thường được dùng trong thánh lễ hôn
phối, trong bầu khí vui tươi, để diễn đạt tình yêu nam nữ,
là hình ảnh của tình yêu Chúa Kitô với Giáo Hội của Người.
8. Tại sao khi bước vào nhà thờ, người ta làm dấu thánh giá với nước thánh ?
Bình nước thánh đặt nơi cửa nhà thờ mời gọi người tín hữu
lấy tay chấm nước thánh và làm dấu thánh giá để nhắc họ nước
của bí tích Thánh Tẩy.
Trong đêm Phục sinh, nghi thức rảy nước thánh đi kèm với
việc cộng đoàn lặp lại lời tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích
Thánh Tẩy.
Nghi thức an táng cũng dùng nước thánh để nhắc nhở rằng bí
tích Thánh Tẩy mở đường và dẫn đến đời sống vĩnh cửu : những
người tham dự được mời rảy nước thánh để tỏ cử chỉ thân
thiện và niềm hy vọng.
9. Tại sao thánh lễ thường bắt đầu bằng một bài hát ?
Ca hát là cách diễn tả thông thường của bất cứ lễ hội nào.
Và việc gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn là một lễ hội
Bài hát nhập lễ nhằm xóa tan sự lạnh lùng của mỗi người
chúng ta và kết hợp chúng ta thành một cộng đoàn tình thương và sống
động.
Hát là dấu chỉ niềm hân hoan trong tâm hồn. Chúng ta hát để
diễn tả sự hiệp nhất của cộng đoàn tham dự và để nói lên rằng chúng
ta vui sướng được gặp lại nhau, như Thánh vịnh 132 đã biểu lộ :
"Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống sum vầy bên nhau !"
Niềm vui này phải được diễn tả cụ thể trong nghi thức đầu
tiên của thánh lễ là sự tập họp của đoàn dân Chúa.
Bàn thờ là nơi quan trọng nhất của nhà thờ, là trung tâm
điểm của phụng vụ Thánh Thể.
Sở dĩ bàn thờ được coi là quan trọng, vì đó là nơi Thiên
Chúa và con người gặp gỡ, liên kết với nhau, là nơi mà Thiên
Chúa đến với loài người và loài người đến với Thiên Chúa.
Bàn thờ cũng tượng trưng cho Chúa Kitô, mối giao tiếp tuyệt
hảo của sự gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa, bởi vì
trong ngôi vị của Chúa Kitô, vừa có bản tính Thiên Chúa, vừa
có bản tính loài người.
Hơn nữa, Tân Ước xác quyết rằng Chúa Giêsu là "viên đá góc
tường" dựa trên đó tất cả được xây dựng (Ep 2, 20). Do đó,
bàn thờ bằng đá hoặc chứa đựng một viên đá trên đó biểu
tượng cho Chúa Kitô.
Đối với người Do-thái, bàn thờ vừa là nơi tế lễ, vừa là chỗ
thiết tiệc, là nơi mà con cái Thiên Chúa được nuôi dưỡng và
giải khát.
Nếu bàn thờ có ý nghĩa phong phú như thế, bạn đừng lấy làm
lạ khi thấy vị linh mục cúi hôn bàn thờ lúc bắt đầu thánh
lễ. Đó là cử chỉ tôn kính đối với Chúa Kitô và đối với hy lễ
của Người.
"Nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Amen".
Thánh lễ bắt đầu bằng dấu thánh giá, là một trong những dấu
hiệu Kitô giáo cổ xưa nhất, và là dấu hiệu tuyệt hảo của
người Kitô hữu.
Khi làm dấu thánh giá, chúng ta nhận biết mình thuộc về Chúa
Kitô, bày tỏ niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô đã chết
trên thánh giá vì chúng ta, chúng ta nói lên lòng ước muốn
đón nhận sự phong phú khôn lường của thánh giá và ước muốn
liên kết đời sống chúng ta với đời sống của Chúa Kitô chết
trên thánh giá. Vậy, thánh giá quả là dấu chỉ sự cứu độ, sự
cứu chuộc và sự phục sinh. Dấu thánh giá còn nhắc chúng ta
về bí tích Thánh Tẩy của mình, bởi chúng ta đã được rửa tội
"nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Dấu thánh giá là biểu thức của chính đức tin Kitô giáo, đó
là sự hiện hữu của Thiên Chúa tình yêu được mạc khải bởi đời
sống của Chúa Kitô. Do đó người ta hiểu tại sao các Kitô hữu
thường làm dấu thánh giá và luôn luôn bắt đầu một nghi thức
phụng vụ bằng dấu thánh giá.
Trong thánh lễ, nhiều lần bạn đáp Amen sau những lời nguyện
mà linh mục chủ tế thay mặt cộng đoàn tuyên đọc. Thí dụ :
- "Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa
chúng ta đến sự sống muôn đời. - Amen".
- "... đến muôn thuở muôn đời. - Amen".
Amen là một chữ do-thái. Các tín hữu thời Cựu Ước thường
dùng Amen để kết thúc lời cầu nguyện của họ. Chúa Kitô cũng
đã sử dụng, không những lúc Người cầu nguyện, mà còn cả
trong lúc giảng dạy để nhấn mạnh, làm nổi bật chân lý Người
nói : "Amen - Thật - Ta bảo thật các ngươi..." Chúng ta
thường gặp ngôn thức này trong Tin Mừng.
Trước kia, sau các lời nguyện, người ta thưa "Ước gì được
như vậy". Bây giờ người ta thích dùng chữ Amen hơn, vì Ước
gì được như vậy không thể diễn tả hết được sự phong phú của
chữ Amen.
Khi thưa Amen, người ta không chỉ bày tỏ ước muốn được như
vậy, mà còn xác nhận một điều chắc chắn. Đó là trường hợp
khi vị linh mục công bố : "Mình Thánh Chúa Kitô" và tín hữu
thưa "Amen". Chữ Amen ở đây có nghĩa "Vâng ! Tôi xác tín
Chúa Kitô đến ngự trong tôi dưới hình bánh này". Đó là một
điều chắc chắn !
Khi bạn thưa Amen sau lời nguyện của linh mục chủ tế, điều
đó không chỉ có nghĩa là ước muốn những lời cầu nguyện đó
được chấp nhận, nhưng còn nói lên rằng : lời nguyện đó cũng
là lời nguyện của chính bạn, và bạn muốn tháp nhập vào đó
với hết tâm tình.
Hơn thế nữa, Amen diễn đạt đức tin của toàn cộng đoàn vào sự
trung tín của Chúa. Người sẽ nhậm lời những gì cộng đoàn cầu
xin với niềm tin tưởng. Bởi vì căn gốc của chữ do-thái này
có ý nghĩa sự trung thành, trung tín. Như thế, khi thưa
Amen, chúng ta tung hô sự trung tín của Chúa, như lời thánh
Phaolô : "Xin Thiên Chúa là Đấng trung tín chứng giám cho
rằng lời nói của chúng tôi đối với anh em, không phải là vừa
"Có" lại vừa "Không". Quả thế, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu
Kitô, Đấng mà chúng tôi đã rao giảng nơi anh em, [...], nơi
Người chỉ là "Có" mà thôi. Bởi chưng bao nhiêu lời hứa của
Thiên Chúa đã thành "Có" ở nơi Người. Vì thế nhờ Người mà
chúng tôi hô lên lời "Amen" tôn vinh Thiên Chúa" (2 Cor 1,
18-20).
13. Tại sao, sau Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế lại đứng đối diện với cộng đoàn ?
Đây là một trong những cải cách phụng vụ thấy rõ nhất của
Công Đồng Vaticanô II.
Thời thượng cổ, hầu hết các nhà thờ được xây hướng về phía
đông, hướng mặt trời mọc, nơi tượng trưng cho sự Sống Lại.
Hướng về phía đông khi cầu nguyện là một cách muốn cho hiểu
rằng cộng đoàn cùng với linh mục chủ tế ngỏ lời với Chúa
Kitô phục sinh.
Chúng ta cũng biết rằng người Do-thái hướng về thành
Giêrusalem khi cầu nguyện, và người hồi giáo hướng về thành
La Mecque.
Sau Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế không quay lưng
vềà phía cộng đoàn như theo truyền thống nữa, mà quay mặt về
cộng đoàn trong suốt thánh lễ. Thông thường, chúng ta đối
diện với người nào đó khi nói chuyện. Do đó thật là hợp lý
khi linh mục chủ tế hướng về cộng đoàn : chào đầu lễ, bài
giảng... Khi linh mục công bố Tin Mừng, chính là Chúa Kitô
nói với dân Người.
Nhưng khi cầu nguyện thì sao ? Khi cầu nguyện, tất cả cùng
thưa với Chúa. Do đó chúng ta sẽ khó hiểu hơn khi thấy linh
mục đứng đối diện với cộng đoàn. Thật ra, bàn thờ được đặt
giữa linh mục và cộng đoàn. Sự sắp đặt vị trí như thế có
nghĩa là : Chúa không ở trước mặt chúng ta, nhưng ở giữa
chúng ta, như lời hứa của Chúa Kitô : "Ở đâu có hai, ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ." (Mt
18, 20). Thánh Phaolô có nói : "Đức Kitô ở giữa anh em,
Người là niềm hy vọng vinh quang !" (Col 1, 27).
° Trong thánh lễ ngày Chúa nhật, có ba bài đọc : bài đọc I
trích từ Cựu Ước (trừ Mùa Phục Sinh, vì từ Chúa nhật Phục
Sinh cho đến Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta
nghe đọc sách Tông Đồ Công Vụ), bài đọc II thường là một
đoạn thư của thánh Phaolô hay của một Tông Đồ khác, còn bài
đọc III thì luôn luôn là một đoạn Tin Mừng (Phúc Âm).
Các bài đọc Cựu Ước kể cho chúng ta nghe công trình của
Thiên Chúa trước khi Chúa Kitô giáng trần. Bài Tin Mừng
thuật lại các việc làm, cử chỉ và giáo huấn của Chúa Giêsu.
Còn bài đọc II cho chúng ta biết tư tưởng và đời sống của
các Kitô hữu tiên khởi.
Trong thánh lễ các ngày Chúa nhật Mùa Vọng, Mùa Chay và Mùa
Phục Sinh, cũng như các ngày lễ trọng (Giáng Sinh, Chúa
Thánh Thần hiện xuống...), cả ba bài đọc đều có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau về tư tưởng. Một sứ điệp được công bố dưới
ba khía cạnh khác nhau.
Còn vào các ngày Chúa nhật khác mà ta gọi là Chúa nhật
Thường Niên hay Quanh Năm, bài đọc I được chọn hợp với ý
nghĩa của bài Tin Mừng. Mục đích để làm nổi bật sự hợp nhất
của Cựu Ước và Tân Ước, của lịch sử cứu độ mà Chúa Kitô là
trung tâm. Nếu có liên hệ tư tưởng với bài đọc II, thì chỉ
là tình cờ mà thôi, vì bài đọc II theo một chu kỳ riêng
biệt.
Các bài đọc được sắp xếp không theo thứ tự thời gian, nhưng
theo ý nghĩa thần học và có tính cách sư phạm : trước tiên
chúng ta nghe chứng từ của các bậc tiền bối trước thời Chúa
Giêsu (bài đọc Cựu Ước) ; kế tiếp, chứng từ của các vị đã
tiếp nhận sự mạc khải của Chúa Kitô phục sinh (bài đọc Tân
Ước) ; và sau cùng là lời của chính Chúa Kitô (Tin Mừng).
Trước Công Đồng Vaticanô II, chỉ có hai bài đọc và được lặp
lại mỗi năm. Bây giờ, trong mỗi thánh lễ Chúa nhật, chúng ta
có ba bài đọc, được đọc lại sau một chu kỳ ba năm có tên năm
A, năm B, năm C. Năm A đọc Tin Mừng theo thánh Mát-thêu ;
năm B, thánh Mác-cô ; năm C, thánh Lu-ca ; còn Tin Mừng theo
thánh Gio-an được đọc mỗi năm trong Mùa Chay và Mùa Phục
Sinh. Như vậy, Giáo Hội cho đọc nhiều bài Thánh Kinh hơn
trước rất nhiều. Chúng ta có thể nghe gần như trọn vẹn sách
Tin Mừng.
° Thánh lễ trong tuần chỉ có hai bài đọc : bài đọc I trích
từ Cựu Ước hoặc Tân Ước (trừ Tin Mừng), bài đọc II luôn là
một đoạn Tin Mừng, được phân phối như sau : trong các tuần
1-9 Quanh Năm, đọc Tin Mừng theo thánh Mác-cô ; trong các
tuần 10-21, theo thánh Mát-thêu ; và trong các tuần 22-34,
theo thánh Lu-ca. Trong các Mùa khác, bài Tin Mừng được chọn
theo tính chất đặc biệt của mỗi Mùa.
Trong Mùa Thường Niên, bài đọc I có chu kỳ hai năm (năm chẵn
và năm lẻ), bài đọc II (Tin Mừng) có chu kỳ một năm. Các Mùa
khác, bài đọc I và II đều có chu kỳ một năm.
Bài Thánh vịnh (hoặc bài thánh ca trích trong Kinh Thánh)
được chọn theo ý tưởng của bài đọc I. Đó là sự đáp lại của
cộng đoàn đối với Lời Chúa mà cộng đoàn vừa nghe (vì thế có
tên là Đáp ca hay Thánh vịnh đáp ca), như là lời đáp lại với
chính Thiên Chúa vừa phán dạy trong bài đọc I.
Thông thường, Thánh vịnh, và đặc biệt là câu đáp của Thánh
vịnh, lặp lại một lời, một ý nào đó vừa được công bố. Thí
dụ, nếu bài đọc I mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và thực hành
những giáo huấn của Người, thì hầu như như câu đáp của Thánh
vịnh sẽ là : "Lạy Chúa, Lời Ngài là chân lý, và luật Ngài là
sự giải thoát cho chúng con".
16. Tại sao phải đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng ?
Trong thánh lễ, cộng đoàn ngồi khi nghe đọc hai bài Sách
Thánh đầu tiên cũng như khi hát hoặc đọc Thánh vịnh.
Nhưng chúng ta đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng, vì là bài
đọc quan trọng hơn cả.
Các bài Tin Mừng chứa đựng chính lời của Chúa Giêsu. Khi
linh mục đọc Tin Mừng trong thánh lễ, chính Chúa Kitô đang
hiện diện và nói với chúng ta. Tin Mừng thuật lại các việc
và hành động của Chúa Giêsu. Do đó, khi nghe công bố Tin
Mừng, chúng ta đứng lên để tỏ lòng tôn kính Chúa Giêsu, tôn
kính những giáo huấn của Người, cũng như mọi việc Người làm.
17. Tại sao phải làm tới ba dấu thánh giá trước khi nghe Tin Mừng ?
Khi linh mục loan báo sẽ đọc bài Tin Mừng nào đó (Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô, thánh
Lu-ca hay thánh Gio-an), chúng ta tuần tự làm một dấu thánh
giá trên trán, một trên môi miệng và một trên ngực. Tập tục
này có từ thế kỷ thứ XI và mang nhiều ý nghĩa phong phú.
Làm ba dấu thánh giá như thế để xin Chúa ban ơn và chúc lành
cho chúng ta.
Qua dấu thánh giá trên trán, trên môi và trên ngực, chúng ta
cầu xin cho lời Tin Mừng, mà chúng ta sắp nghe, thấm nhập
trọn vẹn trong con người, bám rễ sâu trong trí khôn và trong
tâm hồn của chúng ta. Chúng ta cũng xin cho trí tuệ của mình
được soi sáng để thông hiểu Lời Chúa và cho tâm hồn được
sưởi ấm để đón nhận Tin Mừng.
Khi làm ba dấu thánh giá, chúng ta có thể đọc thầm lời
nguyện như sau : "Xin Lời Chúa mở rộng lòng trí con, cho
miệng lưỡi con biết công bố Lời Ngài, cho con biết giữ Lời
Ngài trong tâm hồn con và thực thi Lời Ngài".
Trong thánh lễ, một trong những giây phút liên hệ chặt chẽ
với Lời Chúa, đó là lúc đọc kinh Tin Kính hay lời tuyên xưng
đức tin. Kinh Tin Kính được đọc trong các lễ chúa nhật và lễ
trọng như là sự chấp nhận và đáp lại Lời Chúa mà giáo dân đã
nghe trong các bài đọc và bài giảng.
Kinh Tin Kính tóm tắt tất cả các điều căn bản của đức tin
Kitô giáo. Đọc kinh Tin Kính là dấu chỉ nhìn nhận đức tin
của mọi Kitô hữu.
Tiếp sau phần Tuyên xưng đức tin là phần lời nguyện tín hữu,
hay trước đây thường gọi là lời nguyện giáo dân.
Cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin, khẩn
nguyện, kêu van và tạ ơn không những cho Giáo Hội, cho cộng
đoàn và cho những người tham dự thánh lễ, mà còn cho tất cả
mọi người, như lời khuyên của thánh Phaolô (1 Tm 2, 1).
Trong lời nguyện tín hữu, chúng ta để con tim chúng ta cùng
rung nhịp đập với mọi tạo vật, với mọi chiều kích của vũ
trụ, biết thông cảm với những khổ đau, lao nhọc, với những
niềm hy vọng của mọi người trên trái đất này.
Lời nguyện tín hữu phải ôm trọn toàn thế giới trong vòng tay
của mình và khẩn cầu Thiên Chúa đổ ơn dồi dào trên các tạo
vật của Người.
20. Quyên tiền có phải là nghi thức thừa thãi không ?
Một số người không thích quyên tiền trong các thánh lễ Chúa
nhật, vì việc ấy làm chia trí trong lúc cầu nguyện. Phải
chăng đó là hành vi quá vật chất và trần tục trong khung
cảnh hoàn toàn thiêng liêng ?
Quyên tiền là một nghi thức rất cổ xưa và là sự tổng hợp của
hai cách thực hành đã có từ buổi đầu của Kitô giáo :
° Một đàng, các tín hữu đem bánh và rượu đến để dâng thánh
lễ. Các lễ vật này được rước kiệu lên bàn thờ, được chủ tế
đón nhận để dâng lên Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của phần
Dâng Lễ và lời nguyện tiến lễ (lời nguyện trên lễ vật). Từ
thế kỷ thứ IX, vì việc nhận lễ vật bằng tiền mặt có vẻ tiện
lợi hơn, nên việc rước kiệu lễ vật được thay thế bằng việc
quyên tiền. Việc quyên tiền này trong thánh lễ là dấu chỉ sự
tham dự tích cực của mọi tín hữu vào thánh lễ cũng như lễ
vật của mỗi người. Nghi thức kiệu lễ vật trong thánh lễ,
hiện vẫn còn được thực hiện tại một vài miền và vào các dịp
lễ lớn, giữ lại dấu vết của tục lệ cổ xưa này.
° Đàng khác, tình liên đới giữa các phần tử trong cộng đoàn
Kitô được cổ vũ ngay từ thời sơ khai để cung cấp cho những
nhu cầu của Giáo Hội và của người nghèo.
Do đó việc quyên tiền trong thánh lễ là một trong những
phương cách thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và tình
liên đới với tha nhân.
Ngày xưa, tại các xứ vùng biển Địa Trung Hải, người ta có
thói quen pha một chút nước vào rượu, thường nặng và gắt.
Vào bữa Tiệc Ly (bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn
đệ trước khi chịu tử nạn), phải chăng Chúa Giêsu đã pha chút
nước vào rượu nho ? Có thể như vậy, tuy không có một tài
liệu nào xác quyết việc này cả. Nhưng từ thế kỷ thứ II,
người ta có thể xác định chắc chắn có việc pha nước vào rượu
trong thánh lễ.
Nghi thức này có ý nghĩa rất hay : đó là dấu chỉ mối liên
quan chặt chẽ giữa thần tính và nhân tính trong Chúa Kitô ;
đồng thời, là sự liên kết chặt chẽ của chúng ta (tượng trưng
bởi nước) với Chúa Kitô (rượu nho) làm thành lễ vật dâng
trong trong thánh lễ. Chúa Kitô không tự hiến tế một mình,
nhưng liên kết với Giáo Hội mà chính Người là đầu.
Ý nghĩa phong phú của các biểu tượng này được thể hiện trong
lời cầu nguyện của vị chủ tế khi pha chút nước vào rượu nho
: "Cũng như giọt nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng
con được thông phần bản tính Thiên Chúa của Đấng đã đoái
thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con".
Qui luật duy nhất là dâng thánh lễ với rượu nho tự nhiên và
nguyên chất, nghĩa là không pha trộn với chất nào khác.
Tại nhiều xứ không trồng nho được, người ta sử dụng rượu nho
tự nhiên có nồng độ hơi cao một tí, như rượu Porto chẳng hạn, để có
thể giữ được lâu.
Trước thế kỷ thứ XVI, người ta thường dùng rượu nho đỏ (hiện
nay, phụng vụ theo truyền thống Byzance, bên Đông Phương, vẫn còn
duy trì tập tục này). Vào thế kỷ thứ XVI tại Tây Phương, khi người
ta bắt đầu dùng khăn lau để tráng chén lễ, người ta thích dùng rượu
nho trắng hơn để dâng lễ vì ít để vết.
23. Tại sao chủ tế lại rửa tay cuối phần Dâng lễ ?
Dù không được coi là quan trọng trong thánh lễ, nghi thức
này không thiếu ý nghĩa sâu sắc.
Rửa tay trước khi làm một việc gì cần sự sạch sẽ đặc biệt,
đó là chuyện tự nhiên. Vì thế bạn không nên ngạc nhiên khi
thấy vị chủ tế rửa tay, để chuẩn bị cầm bánh và rượu sẽ được
truyền phép để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô.
Nghi thức rửa tay đã có từ thế kỷ thứ IV. Vào thời kỳ này,
người ta còn đem đến cho vị chủ tế không những bánh và rượu
để được truyền phép, mà cả những sản phẩm cần dùng khác để
các thầy phó tế phân phát cho người nghèo sau thánh lễ.
Hơn nữa, việc rửa tay cũng cần thiết sau khi chủ tế xông
hương lễ phẩm và bàn thờ (nghi thức xông hương muốn nói lên
rằng lễ phẩm và lời cầu nguyện của Giáo Hội cũng ví như
hương trầm bay lên trước nhan thánh Chúa).
Tuy nhiên ngay từ đầu, nghi thức rửa tay luôn có một ý nghĩa
thiêng liêng, đó là dấu hiệu của việc thanh tẩy trong tâm
hồn, vì nước là dấu chỉ của sự thanh tẩy.
Khi rửa tay, vị chủ tế đọc lời Thánh vịnh 50, câu 4 : "Lạy
Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm, xin
Ngài thanh tẩy".
Cho dù mọi tín hữu có thể thông dự vào việc thanh tẩy này,
nghi thức rửa tay chỉ dành riêng cho chủ tế, vì người ta
hiểu rằng, trong chốc lát, vị chủ tế sẽ hành tác nhân danh
Chúa Kitô.
Kinh Tạ Ơn (trước đây gọi là Kinh nguyện Thánh Thể) là kinh
nguyện quan trọng nhất trong thánh lễ. Đó là trung tâm điểm
của bí tích Thánh Thể. Không có kinh Tạ Ơn thì không có
thánh lễ. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầm lấy bánh và dâng
lời tạ ơn, nghĩa là Người đọc kinh Tạ Ơn (xem Lc 22, 19).
Kinh Tạ Ơn khởi đầu bằng lời mời cộng đoàn hướng tâm hồn lên
để cầu nguyện và tạ ơn Thiên Chúa :
° Chúa ở cùng anh chị em. - Và ở cùng cha.
° Hãy nâng tâm hồn lên. - Chúng con đang hướng về Chúa.
° Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. - Thật là chính
đáng.
Hãy tạ ơn Chúa ! Đó là lời quan trọng nhất. Tạ ơn Chúa là
mục đích chính của thánh lễ. Tham dự thánh lễ là tạ ơn Chúa
cả trời đất vì bao kỳ công của Người hôm qua, hôm nay và
ngày mai.
Kinh Tạ Ơn luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha.
Cấu trúc kinh Tạ Ơn :
Chúng ta dừng lại ít phút để khảo sát kỹ lưỡng và để hiểu rõ
cấu trúc của kinh Tạ Ơn. Để tham khảo, tôi đề nghị bạn tìm
đọc kinh Tạ Ơn
II trong cuốn sách lễ nào đó. Sau đây là cấu trúc :
1. Đối thoại mở đầu : đối thoại giữa vị chủ tế và cộng đoàn,
mà chúng ta vừa nêu ở trên, nhằm mời gọi tâm tình tạ ơn.
2. Lời Tiền Tụng : linh mục chủ tế nhân danh toàn thể cộng
đoàn tán tụng Chúa Cha và cảm tạ Người về tất cả công trình
cứu chuộc cho nhân loại, hoặc về lý do nào đặc biệt, tùy
ngày, tùy lễ, tùy mùa khác nhau. Lời Tiền Tụng cũng làm nổi
bật công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.
3. Kinh "Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !" : toàn thể cộng đoàn,
hợp với các thần thánh trên trời, hát hay đọc "Thánh ! Thánh
! Chí Thánh !" Đây là lời tung hô, thờ lạy, tạ ơn và vinh
danh Chúa Cha.
4. Kinh khẩn cầu : xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh
Thần, dùng quyền năng để thánh hiến bánh và rượu, nghĩa là
làm trở thành Mình và Máu Chúa Kitô.
5. Lời truyền Phép : linh mục nhân danh Chúa Kitô đọc lại
những lời Người đã nói trong bữa Tiệc Ly. Chính Chúa Kitô đã
thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa tối sau cùng này, ban
cho các Tông Đồ Mình và Máu Người, dưới hình bánh và hình
rượu, để ăn và uống, và truyền cho các ông phải làm cho mầu
nhiệm này tồn tại mãi.
6. Kinh tưởng niệm : sau lời truyền phép, Giáo Hội tưởng
niệm toàn bộ công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, nhất là
việc tưởng niệm cuộc khổ hình, phục sinh, lên trời của
Người, và loan báo ngày Người sẽ trở lại. Kinh tưởng niệm
được bắt đầu bằng lời tung hô của cộng đoàn : "Lạy Chúa,
chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết..."
7. Kinh khẩn cầu (2) : xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa
Thánh Thần, để sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, các
tín hữu được lãnh nhận ơn cứu độ và được hiệp nhất trong Hội
Thánh, là thân thể sống động của Chúa Kitô.
8. Lời chuyển cầu : sau kinh khẩn cầu là một loạt các lời
cầu xin, cho Giáo Hội, cho mọi người trong cộng đoàn, cho kẻ
sống cũng như đã qua đời, v.v... trong niềm hiệp thông với
các thánh.
9. Vinh tụng ca : cuối kinh Tạ Ơn, một lần nữa linh mục dâng
lời tôn vinh Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh
Thần.
10. Amen ! Toàn thể cộng đoàn kết thúc kinh Tạ Ơn bằng cách
xướng hoặc hát Amen ! có nghĩa là cộng đoàn tán đồng với tất
cả những điều vừa được đọc trong kinh Tạ Ơn.
Như thế, thánh lễ, nhất là trong kinh Tạ Ơn, trở thành tổng
hợp và khuôn mẫu cho mọi lời nguyện Kitô giáo, dưới mọi khía
cạnh, cho mọi nhu cầu, bắt đầu bằng lời tụng ca và lời tạ ơn
lên Thiên Chúa đã ban cho chúng ta biết bao ơn lành. Thực
sự, chẳng phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận những hồng ân
đó, nhưng vì Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước tiên.
25. Tại sao chỉ có một mình linh mục đọc kinh Tạ Ơn ?
Kinh Tạ Ơn không phải là kinh nguyện của một mình linh mục,
nhưng là của toàn thể cộng đoàn. Bằng chứng là, khi đọc kinh
Tạ Ơn, linh mục không dùng chữ "con" nhưng là "chúng con".
Thí dụ trong kinh Tạ Ơn II, ta thấy những câu như sau :
° "Vì thế, chúng con xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh
hóa của lễ này..."
° "Giờ đây tưởng nhớ... chúng con dâng lên Cha bánh trường
sinh và chén cứu độ này..."
° "Sau hết, xin Cha rộng lòng thương xót cho tất cả chúng
con..."
Vị linh mục không tách rời với cộng đoàn ; ngài liên kết với
cộng đoàn và nhân danh cộng đoàn mà cầu nguyện. Dĩ nhiên, có
lúc linh mục phát biểu nhân danh Chúa Kitô : đó là lúc ngài
đọc lời truyền phép Thánh Thể. Nhưng hầu hết, ngài phát biểu
nhân danh cộng đoàn.
Như thế, tất cả cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa, khẩn cầu Chúa
Thánh Thần, cả cộng đoàn dâng lời cầu xin lên Chúa Cha. Do
đó nếu nói rằng kinh Tạ Ơn là việc dành riêng cho linh mục
mà thôi thì không đúng tí nào. Tuy một mình linh mục đọc hầu
hết kinh Tạ Ơn, nhưng ngài nhân danh mọi người mà làm. Kinh
nguyện này không phải là kinh cá nhân của linh mục nhưng là
kinh nguyện chung của toàn cộng đoàn. Lời thưa "Amen" của
cộng đoàn diễn tả điều đó (đã đề cập ở câu hỏi trước).
Khi vị chủ tế chúc : "Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị
em", cộng đoàn thưa : "Và ở cùng cha".
Và chủ tế nói thêm : "Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau".
Bạn đừng nghĩ rằng việc chúc bình an ở đây cũng giống như
việc thân hữu ngoài đời trao tặng cho nhau. Không, đây là
một sự hòa giải. Thật vậy, trong Bài giảng trên núi, Chúa
Giêsu nói rõ rằng trước khi thực hiện mọi hành vi phụng tự,
cần phải làm hòa với anh chị em mình trước đã : "Nếu ngươi
đang dâng của lể nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có
điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước
bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy
trở lại dâng của lễ " (Mt 5, 23-24). Do đó, trong phụng vụ
Đông Phương, nghi thức chúc bình an vẫn còn được đặt trước
kinh Tạ Ơn, cũng như tại Tây Phương trong thời gian đầu.
Việc thực hành nghi thức chúc bình an đã biến mất từ nhiều
thế kỷ nay. Sau Công Đồng Vaticanô II, nghi thức này lại
được lồng vào trong thánh lễ. Một số người không thích cho
lắm, vì họ nghĩ rằng : ngoài các cử chỉ, di động phiền toái,
lại còn thiếu sự thân mật giữa các tín hữu đang tham dự
thánh lễ.
Thật ra, nghi thức chúc bình an trước tiên có một ý nghĩa
thiêng liêng. Thánh lễ là nơi mà tất cả tín hữu khám phá và
nhận ra mình là con cái của cùng một Cha, do đó tất cả là
anh chị em với nhau. Nói lên điều đó không thôi thì chưa đủ,
cần phải được thể hiện cụ thể. Cử chỉ chúc và trao bình an
là một trong những dấu hiệu đẹp nhất, qua đó chúng ta biểu
lộ rằng chúng ta là con cùng một Cha.
Nhưng đôi khi việc chúc bình an đòi hỏi một sự cố gắng lớn,
bởi vì cử chỉ này đòi hỏi mỗi người ra khỏi cái tôi chật hẹp
của mình và coi người khác như là người mà ta phải tôn trọng
và yêu thương. Trong một vài trường hợp, để chúc bình an một
cách thật lòng, chúng ta cần phải tha thứ trong lòng trước
đã, người mà chúng ta sắp đưa tay chúc bình an. Việc này
không dễ dàng gì !
Việc chúc bình an được đặt trước phần rước lễ. Điều đó bình
thường thôi, bởi vì làm sao chúng ta có thể đến gần Chúa
Kitô và nói rằng chúng ta yêu mến Người, trong khi chúng ta
từ chối hướng mặt về người anh chị em đang ở bên cạnh chúng
ta ? "Kẻ nào không yêu mến anh chị em mà mình xem thấy, thì
không thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không xem thấy được" (1
Gioan 4, 20).
Như thế, chia sẻ với người bên cạnh một nắm tay, hôn bình an
hoặc cúi đầu chúc bình an (tùy theo phong tục của mỗi dân
tộc) không phải là cử chỉ xã giao, lịch sự, mà là dấu chỉ
hiệp thông trong sự bình an và tình yêu thương nhau. Và sự
bình an này do Chúa Kitô ban tặng ("Bình an của Chúa hằng ở
cùng anh chị em"). Thật vậy, Chúa Kitô đã phán : "Thầy để
lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các
con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng"
(Gioan 14, 27). Do đó, sự bình an này rộng lớn hơn những gì
con tim chúng ta có thể chứa đựng được, cũng như rộng lớn
hơn những gì bàn tay chúng ta có thể truyền đạt được.
Nghi thức bẻ bánh lập lại cử chỉ của Chúa Kitô trong bữa
Tiệc Ly : "Người cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho các môn
đệ". Vào thời các Tông đồ, thánh lễ được gọi là việc "bẻ
bánh". Thánh Phaolô giải thích : "Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra
chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao ? Vì có một
tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là
một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần vào một tấm
bánh" (1 Cor 10, 16-17).
Cử chỉ bẻ bánh thể hiện rõ ràng giá trị và tầm quan trọng
của dấu hiệu hiệp nhất của mọi người trong cùng một tấm
bánh, và của dấu hiệu yêu thương trong việc mọi người cùng
chia với nhau tấm bánh duy nhất.
Trước đó, kinh Tạ Ơn đã nhấn mạnh điều này khi bày tỏ lời
nguyện sau : "Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết
chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức
Kitô" (kinh Tạ Ơn II). Chúng ta không thể tăng triển trong
sự hiệp nhất với Chúa Kitô nếu chúng ta không cùng một lúc
tăng triển trong sự hiệp nhất huynh đệ.
Ngày xưa, nghi thức bẻ bánh chiếm nhiều thời gian vì phải
chia sẻ bánh thánh cho tất cả cộng đoàn. Ngày nay, vì những
lý do mục vụ (số người rước lễ đông chẳng hạn), người ta
thường sử dụng những bánh lễ nhỏ cho giáo dân và một bánh lễ
lớn cho linh mục. Ngài chỉ bẻ bánh lớn này mà thôi. Do đó
nghi thức bẻ bánh có thể khó nhận ra được, nhưng vẫn luôn
giữ được ý nghĩa sâu sắc của nó.
28. Tại sao chủ tế bỏ một miếng bánh thánh nhỏ vào chén thánh ?
Sau khi bẻ bánh thánh, ngay trước lúc rước lễ, linh mục bỏ
một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh.
Sách lễ không giải thích nghi thức này, có lẽ do không thấy
sự cần thiết hoặc do không chắc chắn về ý nghĩa của nó. Tuy
nhiên, Giáo Hội vẫn giữ lại nghi thức ấy vì muốn trung thành
với truyền thống. Có hai cách giải thích :
1.Nghi thức này có thể liên quan đến thời gian đầu của Giáo
Hội. Các mẫu bánh thánh trong thánh lễ của Đức Giáo Hoàng
được phânchia cho các cha xứ tại các nhà thờ nội thành Rôma.
Những vị này không thể đến dự lễ Đức Giáo Hoàng cử hành do
phải dâng lễ cho giáo dân. Việc chia bánh thánh này muốn
diễn tả sự hợp nhất của linh mục đoàn thành Rôma với vị giáo
hoàng của mình.
2. Cũng có thể cho rằng đây là những bánh thánh được giữ lại
để cho những người bệnh và những người hấp hối rước lễ.
Người ta cathay thế lại mỗi khi bánh thánh trở nên khô cứng,
bằng cách nhúng vào rượu thánh cho mềm bớt để chịu lễ cho dễ
dàng hơn.
Ngày nay, mặc dù chưa có giải thích chính thức nào, người ta
thường nói đến ý nghĩa tượng trưng của bánh thánh và rượu
thánh. Giới thiệu mình và máu, như Chúa Giêsu đã làm ở bữa
Tiệc Ly, theo não trạng của người Do-thái, là gợi lên sự
chết, vì sự sống (tượng trưng bởi máu) không ở trong xác
thịt nữa. Do đó, hòa lẫn Mình Thánh và Máu Thánh trong chén
thánh để diễn tả rằng Chúa Kitô hằng sống, đó là chuyện tự
nhiên. Vả lại, khi nhìn bánh và rượu trên bàn thờ, chúng ta
nghĩ ngay đến bữa ăn, dấu chỉ của sự sống.
Khi bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh, chủ tế
đọc nhỏ : "Xin Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô hòa lẫn với nhau
mà chúng con sắp lãnh nhận cho chúng con được sống muôn
đời".
29. Tại sao phải dùng bánh không men trong thánh lễ ?
Luật hiện hành của Giáo Hội buộc rằng thánh lễ phải được cử
hành với bánh không men (Giáo Luật, số 926).
Nhưng ngày xưa không hẳn như thế. Vào giữa thế kỷ thứ II,
thánh Justinô cho biết là giáo dân đem bánh nướng tại nhà
mình đến để dâng trên bàn thờ. Chắc chắn đó là bánh nướng
được làm dậy bằng men. Cho tới thế kỷ thứ XI, người ta chấp
nhận cả bánh có men lẫn bánh không men để cử hành thánh lễ.
Vào giữa thế kỷ XI, Giáo Hội Tây Phương có thói quen chỉ
dùng bánh không men.
Tại sao bánh có men được thay dần dần bằng bánh không men ?
1. Trước tiên, vì theo gương Chúa Kitô. Theo các thánh sử
Mát-thêu (26, 17), Mác-cô (14, 12) và Lu-ca (22, 7-8), bữa
Tiệc Ly là tiệc lễ Vượt Qua, trong đó người ta dùng bánh
nướng không men để tưởng nhớ ngày dân Do-thái, do phải vội
vã lên đường trốn ra khỏi Ai-cập, họ không có đủ thời giờ để
chờ bột dậy men rồi đem nướng. Dùng bánh không men là cách
để nhắc nhở việc ấy.
2. Vào thế kỷ thứ XII, việc tôn kính Thánh Thể trở nên phổ
biến và được thực hiện một cách tỉ mỉ. Người ta cố giữ làm
sao không cho một mẩu vụn bánh nào rơi xuống đất. Bánh không
men được xét là thích hợp hơn để dâng thánh lễ vì ít bở hơn
và nhẹ hơn bánh có men. Vả lại, với bánh không men, người ta
làm được dễ dàng những tấm bánh trắng và đẹp, dấu chỉ sự
tinh tuyền của lễ vật chúng ta dâng. Hơn nữa, với bánh không
men, người ta dễ làm các bánh nhỏ dành cho giáo dân.
3. Thánh lễø là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Do Giáo Hội Đông
Phương vẫn duy trì bánh không men, nên việc chúng ta cũng
dùng bánh không men để biểu lộ sự hợp nhất với các Kitô hữu
Đông Phương.
4. Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác.
Dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa
tiệc Thánh Thể.
30. Có phải không lên rước lễ vì ta tự xét là không xứng đáng hoặc chưa sẵn sàng chăng ?
Ngày xưa, linh mục dâng thánh lễ bằng tiếng la-tinh và quay
lưng lại với giáo dân. Mỗi người tự dọn mình bằng cách đọc
thầm kinh dọn chịu lễ trước khi lên rước lễ. Nhưng ngày nay,
theo tinh thần canh tân phụng vụ sau Công Đồng Vaticanô II,
toàn bộ thánh lễ là sự chuẩn bị cho việc rước lễ. Hay nói
đúng hơn, toàn bộ thánh lễ là hiệp lễ (rước lễ) : từ việc
mặc niệm lúc đầu thánh lễ, nhìn nhận tội lỗi mình, nghe Lời
Chúa qua các bài đọc, lời nguyện giáo dân, thông dự vào kinh
Tạ Ơn, đọc kinh Lạy Cha. Tất cả đều nhằm khai triển hành
động của Chúa Kitô, Đấng làm cho chúng ta trở nên thân thể
của Người.
Trong kinh Tạ Ơn, sau khi bánh, rượu đã được thánh hiến,
chúng ta xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để
sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta được hiệp
nhất trong Hội Thánh, là Nhiệm Thể của Chúa Kitô.
Bạn thấy rước lễ quan trọng như thế nào khi biết rằng rước
lễ tóm lược toàn bộ thánh lễ. Do đó những người tham dự
thánh lễ không nên tách rời cộng đoàn và tự cô lập mình, khi
nghĩ rằng mình không xứng đáng lên rước lễ. Bạn không quên
điều này : rước lễ không phải là một phần thưởng, nhưng là
một lương thực.
Bạn hãy nhớ lại câu mà mọi người đều đọc trước khi rước lễ :
"Lạy Chúa, con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự đến cùng con,
nhưng xin Chúa chỉ phán một lời, thì con được lành mạnh"
(Sách Lễ Rôma, bản dịch 1992 của HĐGMVN). Như thế, vấn đề ở
đây không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, nhưng trái
lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi,
nhưng là một ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của
Chúa và của ta ví tựa như trời cao với vực thẳm, cho nên đây
không là lúc đặt vấn đề mình có xứng đáng hay không để rước
Chúa vào lòng. Lời nguyện trên lập lại lời của viên sĩ quan
đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình : "nhưng xin
Ngài phán một lời" (Lc 7, 7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản
thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu "Hãy
cầm lấy mà ăn" quan trọng hơn việc tìm kiếm sự thanh khiết
của chúng ta nhiều.
Vả lại, chúng ta cảm thấy nghịch thường khi thấy một số tín
hữu nhận lời mời của Chúa Kitô đến dự bữa tiệc thánh của
Người, và do đó, tự xem là con cái trong một gia đình, lại
tự tách riêng ra, không tham dự rước lễ, làm như họ là người
ngoài bữa tiệc hoặc là những người bàng quan. Tham dự thánh
lễ mà không rước lễ là chưa thấu hiểu ý nghĩa đích thật của
bí tích Thánh Thể.
Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị
vạ tuyệt thông hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể
vào lúc rước lễ, với đức tin cao độ, chúng ta thực sự cảm
thấy chưa sẵn sàng trong nội tâm để tiến lên đón nhận Mình
thánh Chúa. Vì rước lễ đòi hỏi sự chuẩn bị cả con người
chúng ta, nên phải làm hết sức để tránh làm sao cho việc
rước lễ khỏi trở nên máy móc, nhàm chán. Có lẽ trong một vài
trường hợp, ta không nên lên rước lễ, không phải vì ưu tư về
sự thanh khiết của mình, nhưng vì không phù hợp với lòng
thành của mình trước cử chỉ ta sắp thực hiện.
31. Tại sao chúng ta ít khi được rước cả Mình Thánh và Máu Thánh Chúa ?
Giáo Hội khuyến khích việc chịu lễ Mình và Máu Thánh Chúa,
vì hoàn toàn phù hợp với lời mời của Chúa Giêsu : "Hãy cầm
lấy mà ăn", "Hãy cầm lấy mà uống".
Nhưng khi có nhiều người tham dự thánh lễ, việc cho rước lễ
dưới hai hình bánh và rượu gặp nhiều khó khăn cụ thể. Đó là
lý do giải thích tại sao hiếm khi bạn được rước lễ dưới hai
hình thức. Mong rằng trong các dịp lễ trọng, và khi có nhiều
thừa tác viên cho rước lễ, giáo dân được rước cả Mình và Máu
Thánh Chúa.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây, là khi bạn chỉ rước
Mình Thánh Chúa hoặc chỉ rước Máu Thánh Chúa, bạn đều rước
Chúa Giêsu Kitô trọn vẹn. Người hiện diện thật sự và trọn
vẹn ngay chỉ dưới một hình thức (Sắc lệnh của Công Đồng
Trentô (hoặc Triđentinô), khóa họp 13, năm 1551).
Có người đặt câu hỏi : có thể rước lễ nhiều lần trong ngày
được không ? Theo Giáo Luật mới (1983), số 917, ai đã rước
lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong ngày đó, nhưng
chỉ ở trong thánh lễ mà họ tham dự mà thôi.
Đối với một số người, rước lễ bằng tay có vẻ thiếu tôn kính
với Mình Thánh Chúa Kitô. Hôm trước ngày chịu nạn, trong lúc
lập phép Thánh Thể, Chúa Giêsu "cầm lấy bánh, đọc lời tạ ơn,
bẻ ra và trao cho các môn đệ" (Lc 22, 19). Chắc chắn là các
môn đệ đã cầm bánh thánh trong tay của mình. Và Giáo hội
cũng đã tiếp tục làm như thế trong suốt mười thế kỷ đầu. Sử
liệu không thiếu để minh chứng việc này.
Việc rước lễ bằng miệng chỉ xuất hiện sau đó. Một đàng, việc
Giáo Hội chống mọi hình thức ma thuật và tục lệ mê tín dị
đoan (thí dụ : chôn bánh thánh trong đất ruộng để mùa gặt
được tốt) dẫn đến việc rước lễ bằng miệng. Đàng khác, do
người ta ngày càng nhạy cảm về tính chất thiêng liêng của
Mình Thánh để rồi đi đến suy nghĩ cho rằng chỉ có linh mục
mới có quyền đụng đến bánh thánh.
Rước lễ bằng tay và rước Máu thánh Chúa được tái lập bởi
Công Đồng Vaticanô II.
Ngày nay người tín hữu được tự do chọn một trong hai cách
rước lễ. Cách nào hay hơn đối với bạn ? Điều cốt yếu là bạn
tham dự bữa tiệc Thánh Thể và đón rước Mình Thánh Chúa Kitô
phục sinh với tất cả lòng cung kính.
33. Tại sao các tín hữu không tự đến lấy bánh thánh ?
Các tín hữu không tự động đến lấy bánh thánh, mà nhận
bánh thánh từ tay linh mục, phó tế hay từ một thừa tác viên.
Ở bữa Tiệc Ly cũng vậy. Chính Chúa Giêsu đã trao ban bánh và
rượu cho các môn đệ của mình.
Thánh Thể là ân huệ được ban tặng cho chúng ta. Bạn không tự
mình cầm lấy được, nhưng đón nhận từ một người khác. Tự mình
nhận lấy bánh thánh và rượu thánh có thể sẽ dẫn đến sự hiểu
lầm cho rằng bạn có quyền nào đó trên các tặng phẩm cao quí
này. Không phải thế. Thánh Thể là hồng ân của Chúa, không ai
có quyền hoặc có thể chiếm đoạt lấy cho mình. Chỉ có Chúa
Kitô ban hồng ân theo ý Người và theo lòng nhân từ của
Người.
Ai đón nhận bánh thánh là đón nhận ơn cứu độ, vì người ấy
đón nhận chính Đấng Cứu Thế là Đấng hiện diện dưới hình
bánh.
34. Câu chúc kết thúc thánh lễ "Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an" có ý nghĩa gì ?
Đó là những lời cuối cùng mà chủ tế nói trong thánh lễ.
Những lời này không chỉ có mục đích để kết thúc thánh lễ
bằng cách giải tán giáo dân, nhưng còn có ý nghĩa sai đi.
Linh mục muốn nói :
° Anh chị em vừa nghe Lời Chúa, vừa suy ngẫm và tung hô lời
giáo huấn của Chúa Kitô, thì bây giờ hãy đem những lời ấy ra
thực hành. Hãy đi làm chứng về điều mình vừa nghe, về điều
mình tin.
° Trong thánh lễ, anh chị em đã nhớ rằng Chúa Kitô đã hiến
mạng sống mình vì tình yêu, và anh chị em cố gắng noi theo
gương của Người. Anh chị em đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh
Chúa Kitô.
Giờ đây, anh chị em hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô !
Hãy ban tặng sự sống của mình giống như Chúa Kitô đã làm !
Hãy yêu mến tha nhân như Người đã làm gương cho chúng ta !
Hãy yêu thương, tha thứ, và đi gieo niềm hy vọng khắp mọi
nơi !
Trong sách lễ bằng Pháp ngữ, chủ tế nói : "Hãy ra đi trong
bình an của Chúa Kitô" (Allez dans la paix du Christ). Còn
trong sách lễ bằng Anh ngữ, có thể chọn một trong ba công
thức sau :
- "Hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô" (Go in the peace
of Christ),
- "Thánh lễ đã xong, hãy ra đi trong bình an" (The Mass is
ended, go in peace),
- "Hãy ra đi trong bình an yêu mến và phục vụ Thiên Chúa"
(Go in peace to love and serve the Lord).
Tất cả mọi thánh lễ được cử hành đều dành cho toàn thế giới,
như Chúa Giêsu đã phán : "Mình Thầy bị phó nộp vì các con.
Máu Thầy đổ ra để mọi người được tha tội" (Lc 22, 19-20 và
Mt 26, 26-28). Vì thế trong thánh lễ, Giáo Hội cầu nguyện
cho hết mọi người : hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân cũng như
cho những người đã qua đời. Tuy nhiên, vị chủ tế vẫn có thể
kết hợp các ý nguyện chung này với một ý cầu nguyện riêng
của tín hữu.
Thánh lễ vô giá. Nhưng ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, các
tín hữu đã muốn chứng tỏ rằng việc tham dự thánh lễ bao gồm
toàn vẹn bản thân, cũng như chính Chúa Kitô đã trao hiến
trọn vẹn thân Người. Vì thế họ đã đem đến dâng hoặc bằng
hiện vật (bánh, rượu, đèn nến...), khởi đầu cho việc kiệu
rước lễ vật trong thánh lễ, hoặc bằng tiền để trang trải
những chi phí phụng tự, giúp cho linh mục có điều kiện sinh
sống, trang trải các hoạt động của Giáo Hội. Đó là ý nghĩa
lễ vật của họ khi họ ủy thác cho vị linh mục một ý chỉ nào
đó.
Từ đó phát sinh "tiền xin lễ" khá phổ biến kể từ thế kỷ thứ
XII. Các tòa giám mục tùy ý ấn định giá bổng lễ nhưng phải
hợp với khả năng của mọi người. Vì lo rằng việc xin lễ có
thể phát sinh những hình thức thương mại, nên nhiều người
chủ trương dẹp bỏ thói quen này. Nhưng các hoạt động của
Giáo Hội cũng như của hàng giáo sĩ đều dựa vào những đóng
góp tự nguyện của giáo dân, trong đó có việc dâng bổng lễ.
Vì thế trong thực tế, thật khó mà xem thường phần đóng góp
quí báu này của giáo dân.
36. Có thể cử hành thánh lễ chỗ nào khác ngoài nhà thờ không ?
Thánh lễ có thể được cử hành ở ngoài nhà thờ, như ta đã từng
thấy tại những nơi khốn khổ (trong trại tù, trong nhà riêng
ở những vùng có cấm đạo, v.v...). Thánh lễ có thể được cử
hành dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khi thánh lễ được cử hành ở những nơi khác ngoài nhà thờ,
điều quan trọng là ý nghĩa thánh lễ phải được tôn trọng tối
đa. Tại những nơi có đông người tham dự, việc cử hành nhắm
sao cho trang trọng để mọi người có thể tham dự một cách
tích cực và sốt sắng. Tại nhà riêng, vấn đề quan trọng là
đừng để việc cử hành thánh lễ bị tầm thường hóa : sắp xếp
chỗ cử hành, chủ tế phải mặc y phục phụng vụ, người tham dự
phải trang nghiêm, đó là những điều giúp cho thánh lễ thêm
long trọng.
37. Dự lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh có được coi là tham dự thánh lễ thật sự hay không ?
Thánh lễ trên đài truyền hình hoặc truyền thanh là một thánh
lễ đích thật, vì được truyền trực tiếp từ một giáo xứ hay
một dòng tu. Nhưng đài truyền hình và truyền thanh không
truyền hết được tất cả các phần và chi tiết của thánh lễ.
Thánh lễ được truyền hình và truyền thanh có những lợi điểm
nhưng cũng có những giới hạn. Các phương tiện truyền thông
này giúp cho những ai (bệnh nhân chẳng hạn) không thể đi đến
nhà thờ có thể cầu nguyện trong sự hiệp thông với một cộng
đoàn và liên kết với toàn thể Hội Thánh. Họ được nghe các
bài Sách Thánh Chúa nhật và nghe bài giảng chú giải thực
dụng của Lời Chúa. Vả lại, các tín hữu, nơi mà thánh lễ được
truyền hình hoặc truyền thanh, cũng có ý thức trong việc lôi
kéo, khuyến khích lòng thành và đạo đức của những ai đang
phải sống cô quạnh để họ hiệp thông với Hội Thánh qua phương
tiện truyền thông.
Nhưng thánh lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh không
thể thay thế việc đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Không phải
việc xét dự lễ như thế có được xem như đã giữ luật buộc dự
lễ ngày Chúa nhật hay chưa, bởi những người không thể di
chuyển được vì do bệnh tật, do phải sống xa nhà thờ hay do
thời tiết cản trở, đều không buộc phải đi lễ ngày Chúa nhật.
Như thế, chúng ta không có lý do gì ngồi ở nhà, thực hiện
điều mà đáng lẽ chúng ta phải làm ở nhà thờ.
Yếu tố đầu tiên của mọi bí tích, đó là cộng đoàn tín hữu đáp
lại lời mời gọi của Thiên Chúa, và trong lời cầu nguyện,
trong lúc nghe Lời Chúa và trong tình bác ái huynh đệ, họ
cùng nhau cử hành sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô.
38. Tại sao ngôn ngữ phụng vụ không thích nghi với ngôn ngữ ngày nay ?
Ngôn ngữ phụng vụ phải thích nghi sao cho mọi tín hữu hiểu
được, không phải chỉ dành riêng cho một nhóm người riêng
biệt nào đó, qua chức vụ hay nhờ học tập nhiều mới thấu hiểu
được. Vả lại thánh lễ biểu hiện sự hiệp thông của mọi tín
hữu trong Chúa Kitô.
Nhưng mỗi người phải có một thời gian học hỏi mới cóù thể
hiểu được một ngôn ngữ nào đó. Thí dụ : bạn không thể làm
cho một người nào đó hiểu về ngôn ngữ của các thảo trình
trên máy vi tính, trong khi người đó chưa sử dụng máy vi
tính bao giờ cả ! Hoặc là, bạn không thể buộc người nào đó
chưa từng chơi túc cầu phải hiểu ngay được bài tường thuật
truyền hình về giải bóng tròn thế giới ! Về ngôn ngữ phụng
vụ cũng vậy thôi.
Cầu nguyện theo Kitô giáo không phải chỉ nói lên nguyện vọng
của mình với Thiên Chúa. Nhưng lời cầu nguyện còn làm cho
chúng ta liên kết với Thiên Chúa, vì qua lời cầu nguyện của
chính Chúa Kitô, qua lời nói và việc làm của Người, mà người
tín hữu lặp lại như lời cầu nguyện của chính mình vậy.
Bạn có được hướng dẫn thực sự trong việc cầu nguyện, trong
việc đọc Kinh Thánh không ? Bạn có tiếp tục đào sâu giáo lý
sơ cấp mà bạn đã được học lúc còn bé thơ không ?
39. Để cử hành thánh lễ, người ta có thể
thay thế bánh miến và rượu nho bằng các thứ khác, chẳng hạn
bằng cơm và trà ở Á Châu, hoặc bằng bánh khoai mì và rượu
thốt-nốt bên Phi Châu được không ?
Ngày nay, Kitô giáo được loan truyền khắp thế giới và Công
Đồng Vaticanô II mong muốn mỗi dân tộc diễn tả đức tin theo
truyền thống văn hóa riêng của mình. Vậy tại sao không thích
nghi bữa tiệc Thánh Thể với bữa ăn truyền thống của mỗi dân
tộc ?
Bánh miến (làm bằng bột mì) và rượu nho có vẻ quá gắn bó với
nền văn hoá Cận Đông và Tây Phương. Nhưng bạn đừng quên rằng
Chúa Giêsu là người Do-thái, chính Người đã dùng bánh miến
và rượu nho để lập phép Thánh Thể.
Dùng bánh miến và rượu nho cũng là một cách để nhớ lại rằng
Thiên Chúa đã đi vào Lịch Sử. Mạc khải Kitô giáo đã được
thực hiện trong một nơi chốn rõ rệt và một thời điểm nhất
định. Khi chúng ta tuân theo huấn lệnh của Chúa Giêsu "Hãy
làm việc này để nhớ đến Thầy", chúng ta phải để ý đến những
điều kiện cụ thể này của việc Người nhập thể.
Đàng khác, bạn đừng quên biểu tượng phong phú của bánh miến
và rượu nho trong Kinh Thánh, thí dụ :
° "Thầy là bánh hằng sống" (Gioan 6, 35.48). "Thầy là bánh
từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời" (Gioan 6,
51). (Bánh ở đây phải hiểu là bánh miến).
° "Thầy là cây nho thật" (Gioan 15, 1). "Thầy là cây nho,
các con là ngành nho..." (Gioan 15, 5).
"Bánh miến" và "cây nho" là hai đề tài rất thường gặp trong
Kinh Thánh.
Do đó, hai thứ thực phẩm này, hơn hẳn mọi thứ khác, nêu bật
ý nghĩa về mối giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và
loài người, được đóng ấn trong Đức Giêsu Kitô và được cử
hành trong mỗi thánh lễ.
Ngày nay, nhiều tín hữu nhiệt thành không thích kiểu nói
"buộc đi lễ ngày Chúa nhật". Họ khó chấp nhận việc dâng lễ
ngày Chúa nhật như là một bổn phận phải giữ ! Thật vậy,
người ta thường nói đến Kitô giáo với những bổn phận phải
chu toàn.
Những kiểu nói "luật buộc", "bổn phận" đúng ra nên được hiểu
như là những dấu hiệu báo động : chúng không chỉ định một lý
tưởng phải vươn tới, nhưng chỉ là một nhắc nhở lòng trung
thành cần phải giữ và phát triển.
Khi đức tin sống động, thì không cần phải nói đến việc buộc
giữ ngày Chúa nhật. Nếu bạn yêu mến Chúa Kitô thì bạn không
thể không đáp lại lời mời gọi của Người. Khi bạn đang đói và
được người ta dọn một bữa ăn thịnh soạn, hỏi rằng bạn có
thực sự bị bắt buộc ăn hay không ? Nếu bạn khao khát hạnh
phúc và bình an, thì chỉ có Chúa Kitô mới có thể làm cho bạn
thỏa lòng. Vậy bạn có bị bắt buộc phải tiếp đón Chúa Kitô
khi Người mời gọi bạn đến dự tiệc Thánh Thể của Người không
? Tham dự thánh lễ không phải là dịp để chúng ta lấy lại sức
cho đời sống thường nhật của chúng ta hay sao ?
Trước câu hỏi : "có buộc đi lễ các ngày Chúa nhật hay không
?", câu trả lời sẽ là "có" cho những ai không mắc ngăn trở
thật sự để đến tham dự thánh lễ.
Vả lại, Giáo Hội khuyên nhủ các tín hữu cử hành thánh lễ
hằng ngày. Tham dự thánh lễ mỗi ngày là thông phần hoàn toàn
với hành vi phụng vụ của Giáo Hội để dâng lên trên bàn thờ
tất cả đời sống và lịch sử của con người. Đối với các tín
hữu có thể đi nhà thờ được, thánh lễ hằng ngày đặt sự phục
sinh của Chúa Kitô ngay giữa các hoạt động trong ngày của họ
: nghề nghiệp, gia đình, xã hội, v.v...
Trong mối quan hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, khi chúng
ta bắt đầu tính toán để khỏi làm hơn bổn phận đòi hỏi, làm
vừa vặn cho đúng luật buộc, khi chúng ta cố "mặc cả" về điều
"được phép" và "điều cấm đoán" để tìm ra những điều dễ làm
hơn, khi chúng ta muốn tìm ơn cứu rỗi "rẻ tiền", thì lúc đó
chúng ta nên xét lại tình trạng sức khỏe đức tin của chúng
ta !
Qua những câu trả lời trong tập sách nhỏ này, chúng ta đã
khám phá ra hoặc khám phá lại ý nghĩa của thánh lễ. Nhưng
giải thích thánh lễ vẫn chưa đủ, mà cần phải sống và cử hành
thánh lễ trong đức tin, với tất cả tâm tình.
Thánh lễ không phải là một loạt nghi thức nối tiếp nhau,
nhưng là cùng một hiến tế tạ ơn, cùng một mầu nhiệm phục
sinh. Thánh lễ cũng không thể bị thu nhỏ lại thành một cộng
đoàn lắng nghe lời Chúa và tuyên xưng đức tin của mình.
Trước tiên thánh lễ là sự hiện diện tác động của hy lễ của
Chúa Kitô, chính Người kết hợp và thánh hiến Giáo Hội, chính
Người ban đời sống thần linh qua Mình và Máu Người trong
rước lễ. Hiến chế về "Phụng Vụ thánh" nói rõ điểm đó :
"Trong Bữa Tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc
chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình Máu Người, để
nhờ đó Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi
Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quí của
Người là Giáo Hội việc tưởng nhớ cái Chết và Sống Lại của
Người : đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây
bác ái, bữa tiệc vượt qua, trong đó chúng ta ăn Chúa Kitô,
được tràn đầy ân sủng, và được đảm bảo vinh quang tương lai"
(số 47).
Giáo Hội không ngừng nhấn mạnh sự quan trọng của thánh lễ
trong đời sống Kitô hữu. Thí dụ : theo các văn kiện của Công
Đồng Vaticanô II, thánh lễ là "trung tâm điểm của cộng đoàn
tín hữu" (Sắc lệnh LM, số 5), là "nguồn mạch và chóp đỉnh
của tất cả đời sống Kitô giáo" (Hiến chế GH, số 11), và là
"nguồn mạch ơn thánh hóa cho con người và làm vinh danh
Thiên Chúa" (Hiến chế PV, số 10).
Gốc rễ, nguồn mạch, trung tâm, chóp đỉnh : thánh lễ là tâm
điểm của đức tin và đời sống của chúng ta. Theo công thức
nổi tiếng của Đức Hồng Y Henri de Lubac, "nếu Giáo Hội làm
lên thánh lễ" (si l'Église fait l'eucharistie), trước tiên
và tiên quyết "thánh lễ làm lên Giáo Hội" (l'eucharistie
fait l'Église).
Thánh lễ là bữa tiệc, trong đó Thiên Chúa bổ sức cho chúng
ta tiến đến hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã phán : "Ai ăn
thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ
cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết" (Gioan 6, 54).
Ước gì mỗi người chúng ta biết sống sâu sắc bí tích Thánh
Thể để lãnh nhận những ơn thánh bổ ích cho cuộc đời của
chúng ta và để sinh nhiều hoa trái.
Tiếng do-thái, có nghĩa "hãy ngợi khen Thiên Chúa".
Alleluia, được đọc hoặc hát trước khi nghe công bố Tin Mừng
(Phúc Âm), diễn tả niềm hân hoan, tán dương và ngợi khen, và
mời gọi chúc tụng Thiên Chúa vinh quang. Do đó, trong Mùa
Chay, mùa sám hối và hoán cải, mùa tưởng niệm mầu nhiệm khổ
nạn của Chúa Kitô, chúng ta không đọc hoặc hát Alleluia
trong các nghi thức phụng vụ.
Amen
(Xem câu hỏi số 12)
Bài giảng (hay bài diễn giảng)
Giảng ở đây có nghĩa là giảng Lời Chúa : linh mục chú giải
về đoạn Tin Mừng vừa nghe, quảng diễn và áp dụng Lời Chúa
trong đời sống hằng ngày.
Bài giảng là phần phụng vụ phải có trong các thánh lễ chúa
nhật và lễ trọng, vì sau Công Đồng Vaticanô II, Giáo Hội
luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của Tin Mừng, của Thánh
Kinh trong thánh lễ cũng như trong đời sống Kitô hữu.
Bí tích
Danh từ bí tích (bí : kín, dấu kín không biết được ; tích :
dấu vết để lại) dịch từ chữ hy-lạp mysterion hoặc từ chữ
la-tinh sacramentum.
Bí tích cũng còn được gọi là Nhiệm tích.
Sách "Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo" (1992) định nghĩa bí tích
như sau : "Các bí tích là những dấu hiệu hữu hiệu của ân
sủng do Chúa Kitô thiết lập và được trao lại cho Giáo Hội để
ban sự sống thần linh cho chúng ta. Các nghi thức hữu hình
để cử hành các bí tích thì nói lên và thực hiện những ân
sủng riêng của mỗi bí tích" (số 1131).
Bí tích là máng chuyển ơn Chúa cho chúng ta. Mọi bí tích đều
là hành vi của Chúa Kitô được Giáo Hội cử hành qua nghi thức
phụng vụ gồm sự vật, cử chỉ và lời nói kèm theo. Thí dụ :
trong bí tích Rửa Tội, linh mục đổ nước ba lần trên đầu thụ
nhân hoặc dìm thụ nhân ba lần trong giếng rửa, và đọc :
"T..., cha rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
Có tất cả bảy bí tích : Rửa Tội (hoặc Thánh Tẩy), Thêm sức,
Thánh Thể, Hòa Giải (hoặc Giải Tội), Xức Dầu bệnh nhân,
Truyền Chức, Hôn Phối.
Hiến tế tạ ơn là một cách gọi khác của thánh lễ và lễ Misa.
Từ ngữ này (dịch từ động từ hy-lạp eucharistein : tạ ơn)
diễn tả rõ ràng mục đích chính của thánh lễ : cảm tạ và ngợi
khen Chúa Cha nhờ Chúa Kitô, với Người và trong Người, cũng
như sự kết hợp của Giáo Hội với các tác động này của Chúa
Kitô (xem câu hỏi số 1).
Kinh Tin Kính
Có hai bản kinh Tin Kính : kinh Tin Kính các Tông Đồ và kinh
Tin Kính Nicée. Dưới hình thức này hay hình thức khác, kinh
Tin Kính được cộng đoàn đọc trong các thánh lễ Chúa nhật và
lễ trọng sau bài Tin Mừng và bài giảng.
° Kinh Tin Kính các Tông Đồ, cũng gọi là Biểu Tín các Tông
Đồ (symbole des Apôtres), là bản kinh Tin Kính xưa nhất, có
từ thế kỷ thứ II. Bản này tổng hợp các công thức đã có trước
đó. Từ thế kỷ thứ VI, bản này có hình thức như chúng ta thấy
hiện nay. Đây là bản tuyên xưng những tín điều chính yếu
nhất khi chịu phép Rửa.
° Kinh Tin Kính Nixêa do Công Đồng Nixêa (Nicée) chấp thuận
vào năm 325 nhằm đối phó với lạc thuyết arianô chối bỏ thần
tính của Chúa Giêsu Kitô. Sau đó bản này được Công Đồng
Constantinople bổ túc vào năm 381 nhằm để xác quyết thần
tính của Chúa Thánh Thần do nhiều bè rối chối bỏ, vì thế đôi
khi người ta gọi bản này là kinh Tin Kính của các Công Đồng
Nixêa-Constantinople. Giáo dân Việt Nam thường đọc bản này
trong thánh lễ.
Kinh Vinh Danh
Bài thánh ca này đã có từ lâu đời cũng được gọi là "khúc hát
thiên thần" (le cantique des anges). Giáo Hội, được đoàn tụ
trong Chúa Thánh Thần, dùng kinh Vinh Danh để tôn vinh Chúa
Cha và cầu khẩn Chúa Chiên Con. Kinh Vinh Danh được hát hay
đọc vào phần đầu thánh lễ Chúa nhật (trừ Mùa Vọng và Mùa
Chay), trong các lễ trọng, lễ kính và trong các dịp lễ khá
long trọng. Người ta không biết tác giả là ai cũng như năm
sáng tác, nhưng biết rằng kinh Vinh Danh đã có trong kinh
sáng bên Đông Phương vào thế kỷ thứ IV.
Trong Sách Lễ Rôma, bản chính bằng tiếng la-tinh, để kết
thúc thánh lễ, chủ tế đọc "Ite missa est". Missa (do động từ
la-tinh mittere : gửi đi) có nghĩa là sự trả về. Do đó "Ite
missa est" có nghĩa là "Hãy đi, đây là lúc giải tán", cũng
như khi ta nói : "Thôi về đi, mọi việc đã xong rồi !" Đương
nhiên, chúng ta biết công thức bằng tiếng Việt : "Lễ đã
xong, chúc anh chị em ra về bình an" (xem câu hỏi số 34).
Từ thế kỷ thứ IV, chữ missa chỉ định toàn bộ thánh lễ. Từ
đó, có tiếng Pháp Messe, tiếng Anh Mass, và tiếng Việt Lễ
Misa.
Năm phụng vụ
Năm phụng vụ, bắt đầu từ Chúa nhật I Mùa Vọng (vào cuối
tháng 11 hoặc đầu tháng 12, tùy theo năm) cho đến thứ bảy
của tuần 34 Thường Niên, nhằm kể lại toàn bộ lịch sử ơn cứu
độ và cuộc đời của Chúa Kitô mà lễ Phục Sinh là đỉnh điểm.
Mỗi lễ phụng vụ làm nổi bật một khía cạnh nào đó của mầu
nhiệm cứu độ duy nhất.
Năm phụng vụ gồm các mùa sau đây, theo tuần tự :
° Mùa Vọng : khoảng 4 tuần trước lễ Giáng Sinh.
° Mùa Giáng Sinh : từ lễ Giáng Sinh tới cuối tuần lễ Hiển
Linh.
° Mùa Thường Niên (hoặc Quanh Năm) (phần I) : từ Chúa nhật
sau lễ Hiển Linh đến thứ tư Lễ Tro. Vì ngày lễ Phục Sinh
không cố định nên Mùa này kéo dài từ 5 đến 9 tuần, tùy theo
năm.
° Mùa Chay : gồm 40 ngày (không tính các ngày Chúa nhật), từ
thứ tư Lễ Tro đến Chúa nhật Phục Sinh.
° Mùa Phục Sinh : gồm 50 ngày, từ Chúa nhật Phục Sinh đến
Chúa nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
° Mùa Thường Niên (phần II) : kéo dài từ 25 đến 29 tuần (tùy
theo năm), từ lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đến Chúa nhật I
Mùa
Vọng. Năm phụng vụ mới lại bắt đầu. + Ngày lễ Phục Sinh được
tính vào Chúa nhật đầu tiên sau trăng tròn đầu tiên của mùa
xuân. Từ ngày lễ Phục Sinh này, người ta xác định được ngày
của ba lễ khác : thứ tư Lễ Tro, 40 ngày trước đó (không tính
các ngày Chúa nhật) ; lễ Thăng Thiên, 40 ngày sau (vào ngày
thứ năm) ; lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, 50 ngày sau (vào
ngày Chúa nhật).
Nhà Chầu hay Nhà Tạm là một chiếc tủ nhỏ chứa đựng Mình
Thánh Chúa. Tùy kiến trúc từng nhà thờ mà Nhà Chầu được đặt
tại gian cung thánh hoặc bên cạnh.
Theo lịch sử phụng vụ, việc giữ Mình Thánh Chúa trong Nhà
Chầu, hay Nhà Tạm, trước tiên là để dành cho những người
bệnh hoặc những người hấp hối sắp ra đi như "của ăn đàng".
Ngày nay, Giáo Hội tiếp tục giữ Mình Thánh Chúa trong Nhà
Chầu để cho tín hữu có thể đến viếng và cầu nguyện trong
ngày, ngoài những nghi thức phụng vụ chính thức. Đèn chầu,
được đăït bên cạnh, ngày đêm thắp sáng nói lên sự hiện diện
của Chúa Kitô ở giữa dân Người.
Phụng vụ
Danh từ phụng vụ (phụng : vâng phục, tôn sùng ; vụ : công
việc) được dịch từ chữ hy-lạp leiturgia (ghép bởi danh từ
ergon = công việc, và tĩnh từ leitos = công cộng) có nghĩa :
việc công cộng có ích cho dân chúng. Trong quá trình lịch
sử, danh từ leiturgia có thêm nhiều nghĩa khác nhau.
Theo tinh thần của Công Đồng Vaticanô II, phụng vụ là tác
động linh thiêng, qua đó, và dưới một nghi thức, hành vi tư
tế của Chúa Kitô, nghĩa là công cuộc thánh hóa con người và
vinh danh Thiên Chúa, được thực hiện và tiếp tục trong Giáo
Hội và bởi Giáo Hội.
Nói một cách đơn giản, phụng vụ chỉ định các nghi thức thờ
phượng công cộng của Giáo Hội. Các nghi thức phụng vụ, theo
định nghĩa, phải có sự chủ tọa của một thừa tác viên của
Giáo Hội với sự tham dự tích cực của các tín hữu.
Ngoài ra danh từ phụng vụ còn có hai nghĩa khác nữa :
° bên Đông Phương, phụng vụ có nghĩa là chính thánh lễ.
° phụng vụ chỉ định môn học về các việc phụng tự khác nhau.
Thí dụ : thần học phụng vụ, phụng vụ Đông Phương, v.v...
Thánh lễ đồng tế:
Thánh lễ đồng tế do nhiều linh mục cùng cử hành, và dưới sự
chủ tọa của một vị.
° Tại Tây Phương, trước thế kỷ thứ XIII, thánh lễ được đồng
tế "âm thầm", nghĩa là chỉ có vị chủ tế, là người có chức vụ
lớn nhất, đọc kinh Tạ Ơn (Kinh nguyện Thánh Thể) mà thôi.
Vào thế kỷ thứ XIII tại Rôma, các vị đồng tế cùng đọc kinh
Tạ Ơn với Đức Giáo Hoàng, và mỗi vị cầm một bánh lễ trong
tay của mình. Khoảng cuối thời Trung cổ, thánh lễ đồng tế
không còn phổ thông nữa.
Công Đồng Vaticanô II (1962-1965) xác định giá trị cao cả
của thánh lễ đồng tế, vì việc đồng tế biểu lộ cách thích
đáng của chức linh mục và của hy tế, cũng như sự hợp nhất
của toàn dân Chúa.
° Tại Đông Phương, thánh lễ đồng tế vẫn được duy trì từ xưa
tới nay.
"Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !"
Bài hát này là bản tổng hợp của một số câu Kinh Thánh :
(theo bản dịch mới)
° Thánh ! Thánh ! Chí Thánh ! Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn
là Đấng Thánh (Is 6, 3 ; Kh 4, 8).
° Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa (Is 6, 3).
° Hoan hô Chúa trên các tầng trời (Mt 21, 9).
° Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa (Tv 117, 26 ; Mt 21,
9).
° Hoan hô Chúa trên các tầng trời (Mt 21, 9).
Câu trong Isaia (6, 3) gồm : "(Toàn trái) đất rạng ngời vinh
quang Chúa". Phụng vụ thêm chữ "trời". Viễn ảnh trở nên bao
la : cả trên trời và dưới đất, cả các thiên thần, các thánh
và loài người, với muôn loài tạo vật, đồng thanh tung hô
vinh danh Chúa Cha.
Theo sách Khải Huyền (4, 8), bài "Thánh ! Thánh ! Chí Thánh"
là lời tung hô của các thiên thần và các thánh trên trời.
Như thế, mỗi thánh lễ được cử hành làm cho chúng ta hướng về
lời tán tụng muôn đời này.